Flamenco là một hình thức nghệ thuật dân gian của Tây Ban Nha (TBN), thực tế, đó là cả một nền văn hoá. Hơn thế, nó không mang tính bản địa TBN mà chỉ là văn hoá riêng của một phần của nước này – tỉnh Andalusia.Trong quá khứ, Flamenco luôn mang tính chất giải toả tinh thần cho tầng lớp nghèo chịu áp bức. Nó được lưu giữ tới ngày nay theo lối truyền khẩu, và được các nghệ sĩ khác nhau dựa vào đó sáng tác các bản biến tấu theo phong cách của riêng mình.
Lịch sử Flamenco Flamenco là sự hoà quyện của 3 loại hình : hát, nhảy múa và guitar- cùng với cách ngắt nhịp (vỗ tay hoặc bằng các cách khác) được xem như một hình thức nghệ thuật theo cách của riêng mình. Có đến hàng trăm phong cách khác nhau, mỗi loại đều có tên đặt riêng như seguiriyas, soleares, alegrías, malagueñas, fandangos, zapateado, rondeña, … tuỳ thuộc vào các kiểu kết cấu đặc trưng về giai điệu, tiết tấu hay hoà âm. Mỗi thể loại này đều mang vẻ đặc thù và nhiều trong số đó là các bản biến thể từ các bản tương tự tuỳ theo từng vùng.
Nguồn gốc
Người ta cho rằng flamenco ra đời từ thế kỉ 16. Các bài ca của flamenco (hay còn gọi là cante) được tổng hoà dựa trên ít nhất 4 gốc văn hoá khác nhau:
Văn hóa Gyspy
Văn hóa người Moor (hay Ả rập)
Văn hóa Do Thái
Văn hóa bản xứ Andalucia.
Năm 1492, do cuộc trục xuất người Moor kéo theo nạn ngược đãi tàn tệ người Do Thái và Gypsy, văn hoá của họ cũng bị dìm xuống bùn đen. Rút cục Flamenco được tạo ra từ hỗn hợp giữa cante gitano với nhạc dân ca Andalucia. Còn dùng guitar để đệm cho các ca sĩ hát là hiện tượng mà mãi về sau này các du khách tại Andalusia thế kỉ 18 ghi lại. Những bài dân ca Andalusia đã từng đi với rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau như bandurria, violin, tambourine, và bây giờ do guitar chiếm lĩnh. Lần đầu Flamenco chính thức trở thành môn nghệ thuật biểu diễn bình dân là vào nửa sau thế kỉ 19, với sự xuất hiện của Cafe Cantante. Quán Cafe Cantante đầu tiên được mở năm 1842 tại Seville, và chẳng mấy gây chú ý. Nhưng đến những năm 1860, các quán kiểu này mọc ra khắp nơi, không chỉ ở các thành phố lớn của Andalucia mà còn vươn tới Maldrid và xa hơn nữa. Khán giả thuộc mọi tầng lớp và nghề nghiệp. Họ tới cafos giải trí và xem một nhóm gồm một vài ca sĩ, 2 tay guitar đệm hát cho 3 hay 4 cô gái nhảy cùng 2 chàng trai. Nửa sau thế kí 19 này có thể coi như thời kì rầm rộ nhất của nghệ thuật biểu diễn Flamenco. Các quán Cafe Cantante hội tụ cả những ca sĩ người Gypsy (cante gitano) và người Andalucia (cante andaluz), là những bậc thầy của nhiều thể loại flamenco khác nhau. Đồng thời, cũng nhờ đó mà vai trò của cây đàn guitar được trở nên rộng hơn, hết sức phổ biến. Các quán (cafos) có thể thuê một nguời chơi guitar thông thường hạng nhất hoặc nhì, và nhất thiết phải biết đệm nhiều điệu hát hoặc nhảy khác nhau, và có thể chơi tùy theo phong cách của các ca sĩ khác nhau. Trong khi ca sĩ giữ lại những điểm chủ đạo, thì người chơi đàn ngày càng ít phụ thuộc. Nghệ sĩ guitar rất được ưa chuộng, và cạnh tranh cũng vì thế mà nóng bỏng. Nhằm vượt lên những đồng nghiệp của mình, người chơi đàn luôn đưa ra các kĩ thuật mới, thậm chí đôi khi là các ngón nghề tiểu xảo bắt mắt nhằm phô diễn như đeo găng một tay để chơi đàn hoặc đưa đàn lên quá đầu. Tuy nhiên các Cafos cũng đã nuôi dưỡng nên hàng loạt các nghệ sĩ guitar tài năng, đỉnh điểm là Ramon Montoya ( 1880- 1949) – người sau này đã sáng lập ra phong cách hiện đại cho guitar flamenco solo. Thế kỉ 19 qua đi, mang theo những ngày hoàng kim của Flamenco với các cafos cantante sôi động, vào những năm 1910, nó suy thoái nghiêm trọng.Từ đó đến 1936 là khoảng thời gian Flamenco được chuyển thể sang để trình diễn tại nhà hát, thành các vở flamenco Opera hoặc flamenco Ballet. Công chúng chuyển sang ưa chuộng những chất giọng mượt mà (điển hình như Antonio Chacún) và các bài cante Andalusian nhẹ nhàng hơn. Hai ca sĩ chuyên nghiệp hàng đầu của mọi thời đại, Chacún và Torre là những cá nhân lừng lẫy trong lịch sử Flamenco. Cũng không thiếu các nghệ sĩ lớn thực sự về khâu vũ đạo,cùng các tài năng guitar như Javier Molina, Ramón Montoya, Manolo de Huelva, and Perico del Lunar. Chiến tranh Châu âu và hệ quả tồi tệ của nó là cuộc chiến tranh lạnh tại TBN khiến cho toàn cảnh Flamenco những năm 1940 trở nên ảm đạm , ít có những cuộc biểu diễn ngoài phạm vi các nước Châu Mỹ. Tuy nhiên, sự quan tâm tới một văn hoá Flamenco chân chính đã xuất hiện trở lại vào những năm 50, tạo nhiều điều kiện để tổ chức các buổi biểu diễn nghiêm túc. Các Festivals tại Cordoba, Jerez và Malaga cuối những năm 50, đâu những năm 60 đã tác động nhiều đến thị hiếu công chúng và khuyến khích một thế hệ nghệ sĩ mới.
Guitar Flamenco hiện đại
Guitar Flamenco hiện đại được xem như họ hàng của guitar cổ điển hiện đại, vì chúng có cùng gốc gác tổ tiên, lại được xây dựng trên những phương pháp cơ bản giống nhau. Tuy nhiên guitar Flamenco có một âm thanh đặc trưng và kết cấu riêng, đạt được nhờ việc sử dụng những loại gỗ khác nhau để làm thân đàn, đồng thời cũng hơi khác guitar cổ điển về độ cân xứng và kích cỡ. Những khác nhau cơ bản giữa đàn guitar Flamenco với guitar cổ điển: 1- Một cây guitar cổ điển kiểu mẫu được làm từ gỗ hồng, cần đàn làm bằng gỗ tuyết tùng hoặc vân sam. Nhạc cụ flamenco truyền thống thì lại làm toàn bộ từ gỗ bách, cấu tạo đơn giản hơn, khiến cho cây đàn có âm thanh nhẹ hơn và đủ độ chắc chắn để người chơi có thể gõ đập vào thùng đàn. Một số nghệ sĩ Flamenco thích tiếng đàn có chiều sâu của guitar cổ điển để chơi solo, những người khác thì sử dụng một kiểu đàn pha tạp giữa cả hai. 2- Mặt đàn guitar flamenco có kèm thêm một bản nhựa mỏng dẹt để bảo vệ mặt đàn khỏi những móng tay phải khi nghệ sĩ thực hiện những cú vảy ngón (là đặc trưng cho guitar flamenco) 3- Flamenco guitar vẫn có núm chỉnh dây ( giống như đàn violon). Guitar cổ điển thì lại dùng các trục và bánh răng để lên dây. Cũng giống như đàn guitar cổ điển, cây guitar flamenco là nhạc cụ ra đời tương đối muộn so với các nhạc cụ kinh viện khác. Có nhiều căn cứ cho thấy chính Antonio Torres đã cống hiến cho sự phát triển và ổn định của guitar flamenco ở những năm 1850, cùng thời điểm và cùng một phong cách ông dành cho guitar cổ điển. Năm 1867, Torres đã xem xét kĩ cây guitar flamenco được làm thời kì đầu, và phát hiện những đặc điểm cơ bản về kiểu dáng. Để lên được 6 dây đàn, phải nhờ vào các núm lên dây bằng gỗ, thùng đàn nhỏ hơn đàn cổ điển một chút. Tuy nhiên, 2 đặc điểm quan trọng nhất của 1 cây guitar flamenco kiểu mẫu là: mặt sau và các mặt bên của đàn làm từ gỗ bách, và cấu tạo đàn hết sức nhẹ nhàng. Việc dùng loại gỗ bách rất mỏng và nhẹ để làm thùng đàn tạo cho nó một âm thanh rất riêng biệt. Toàn bộ cấu trúc bên trong cũng đơn giản hơn so với đàn guitar cổ điển. Cấu tạo các phím trên cần đàn cũng thấp hơn, với các dây gần phím hơn để chạy ngón được nhanh, bề mặt cần đàn cũng hẹp hơn một chút. Sau cùng là mặt đàn có một tấm bản dẹt bảo vệ đàn khỏi hư hại do các động tác đập, vỗ của ngón tay người chơi, vốn là các động tác kĩ thuật chủ yếu của flamenco. Người ta cho rằng nhiều đặc điểm của cây guitar flamenco xuất phát từ nhu cầu của những người không có khả năng dùng nhạc cụ đắt tiền. Trước tiên nó phải rẻ. Thật vậy, các nhạc công flamenco chưa bao giờ là những người dư thừa tiền của.
Suốt hơn một thế kỉ qua, cây guitar flamenco đã thay đổi không nhiều, dù kích cỡ có tăng lên chút ít. Gỗ thích đã được thử nghiệm làm thùng đàn thay cho gỗ bách. Cây đàn được giới thiệu gần đây nhất là sản phẩm pha tạp ” concerto flamenco” guitar, kết hợp giữa cần đàn và mặt đàn của guitar flamenco với gỗ hồng mộc của và núm chỉnh dây đàn của guitar cổ điển.
Flamenco: form/family/style
1) Gypsy (cante gitano)Soleares family
Soleares
La Caña
Alegrías
Bulerías
Seguiriya family
Seguiriyas
Serranas
Tientos family
Tientos
Zambras
Tangos
Tanguillos
2) Andalusian (cante andaluz)Fandangos family
Fandangos grandes
Fandangos de Huelva
Granadinas (Granaínas)
Media Granaínas
Malagueñas
Verdiales
Minera
Rondeña
Tarantas
Tarantos
3) Folk-influencedFarruca
Garrotín
Petenera
Sevillanas
Villancico
El Vito
4) Latin American-influencedGuajiras
Colombianas
Rumba