Andres Torres Segovia (21/2/1893- 02/6/1987) là một nghệ sỹ
guitar lừng danh ở thế kỷ 20. Ông được sinh ra tại Linares, Jaén, Tây
Ban Nha. Ông được xem là người đưa cây đàn guitar có một vị trí trong dàn nhạc, đưa cây đàn guitar lên ngang hàng với các nhạc cụ như piano và violin.
Ông được thế giới biết đến bởi những đóng góp to lớn, bao gồm: những
sắc màu âm nhạc độc đáo và một phong cách biểu diễn không thể nhầm lẫn,
ông thổi vào âm nhạc một sức sống mãnh liệt với cái nhìn đặc biệt. Các
tác phẩm chuyển soạn chính cho cây đàn guitar của ông là từ các tác phẩm
của Johann Sebastian Bach được viết vào cuối thời kỳ Baroque, ngoài ra ông cũng tự mình sáng tác ra một số tác phẩm cho cây đàn guitar.
Có lẽ không có nhạc sĩ nào vào đầu thế kỷ 20 lại có thể tiêu biểu cho ý
niệm lý tưởng của công chúng thế kỷ 19 về mẫu người nghệ sĩ như là danh
cầm guitar Andrés Segovia (1893-1987). Suốt sự nghiệp 78 năm trình diễn,
con người vĩ đại của cây guitar Tây Ban Nha đã thực sự chuyển tải hình
ảnh của một con người giữ nguyên chất thời đại Lãng Mạn, một kẻ duy mỹ
không hiểu sao lại lạc bước vào một thời đại khác, kém mỹ miều hơn.
Giống như nhạc cảm của ông, tài nghệ âm nhạc của Segovia cũng tinh tế
khác thường và tài nghệ ấy càng góp phần tạo nên hình ảnh của một con
người thuộc về một thời đại khi mà nghệ sĩ trông giống nghệ sĩ, ăn mặc
như nghệ sĩ, và mong đợi công chúng đối đãi với mình như là nghệ sĩ.
Segovia chào đời ngày 21/2/1893. Từ thuở ấu thơ ở quê nhà Linares, miền
nam Tây Ban Nha, Segovia đã mê đắm cây đàn guitar bất chấp sự phản đối
gay gắt của người cha; ông ấy chỉ muốn con trai mình đi theo ngành luật.
Người cha kinh hãi khi thấy cậu bé đã si mê cây đàn tuy là nhạc cụ dân
tộc nhưng vốn bị xem thường ấy. Ông cho Segovia học thử piano và cello
nhưng các nhạc cụ quý phái kia không thể nào buộc cậu bé từ bỏ được mối
tình với cây đàn guitar. Mối tình ấy đã nhen nhúm ngay từ lúc cậu bé
được nghe lần đầu tiên trong đời qua âm điệu của những nhạc công
flamenco du mục. Người cha đã đập vỡ đến cây đàn guitar thứ ba của
Segovia rồi đành bất lực. Ông không làm sao lôi kéo được cậu con trai
thoát khỏi ma lực của thứ nhạc cụ hạ cấp chỉ dành cho dân di-gan múa may
trong những hầm rượu tồi tàn. Rốt cuộc ông đành phải cho phép Segovia
theo học danh cầm guitar Miguel Llobet một thời gian ngắn. Tuy nhiên,
Segovia chủ yếu vẫn tự mình khám phá lấy những kỹ thuật chơi đàn.
Segovia được gia đình gửi đi học nhạc ở Nhạc Viện Granada nhưng chỉ một
thời gian cậu bé cũng bị "mời" ra khỏi trường. Không có chỗ cho cây đàn
guitar trong thế giới âm nhạc cao quý thời đó! Thế là cậu bé bắt đầu
cuộc hành trình cô độc đi tìm lại quá khứ khả kính của cây đàn yêu dấu.
Segovia nhanh chóng phát triển được một kỹ thuật thượng thừa và một tri
thức âm nhạc sắc sảo. Mới 16 tuổi, Segovia đã thực hiện thành công cuộc
trình diễn đầu tiên và tên tuổi của cậu bé liền lan truyền khắp đất nước
Tây Ban Nha. Sáu năm sau, Segovia làm náo động thế giới âm nhạc Paris
khi chàng trình tấu với cây đàn guitar của mình. Thành công đó dẫn dắt
Segovia làm một chuyến lưu diễn khắp Nam Mỹ.
Tuy nhiên, mãi đến lần trình diễn chính thức tại Paris năm 1924, trước
sự tham dự và xét nét của những nhạc sĩ và văn nghệ sĩ lỗi lạc, thì
Segovia mới thật sự nổi tiếng khắp châu Âu. Vào thời ấy, ít người được
nghe âm nhạc thần thánh của Johann Sebastian Bach chơi bằng guitar hay
thậm chí nghĩ đến một chuyện lạ lùng như vậy. Những nhạc phẩm nguyên
thủy được Bach viết cho cây đàn violon quý tộc khi được Segovia chuyển
soạn lại cho guitar và trình diễn đã bộc lộ không những thiên tài của
chàng trai "phạm thượng" kia mà còn cho thấy tiềm năng của loại nhạc cụ
sáu dây "đầu đường xó chợ" này.
New York lần đầu tiên nghe thấy tiếng đàn Segovia năm 1928 trong một
buổi trình diễn ở thính đường Tòa Thị Chính. Các nhà phê bình sửng sốt:
dưới những ngón tay thần của Segovia, sáu dây đàn guitar phô bày những
âm sắc hết sức đa dạng và cực kỳ biểu cảm. Các buổi trình diễn sau đó
của Segovia ở New York và các thành phố khác trên đất Mỹ phải chuyển
sang những thính đường lớn hơn để đủ chỗ chứa hết số lượng thính giả
ngày càng đông.
Cái tên Andrés Segovia đã ghi vào lịch sử âm nhạc thế giới. Ông tiếp tục
đeo đuổi sự nghiệp trình diễn và ghi âm thu đĩa của mình với sự trường
thọ đáng kinh ngạc bất kể thị lực đã suy giảm vì phải giải phẫu vőng mạc
vào cuối thập niên 1960. Những nhạc sĩ có sức làm việc bền bỉ và được
công chúng yêu mến lâu dài như Segovia chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Nếu không có sự gan lì trong bản chất thì nhà quý tộc với tính khí và mỹ
cảm phức tạp ấy đã không trở thành một nghệ sĩ biểu diễn lừng danh
trong suốt 78 năm trời. Rất may là từ trẻ ông đã hình thành và không bao
giờ đánh mất niềm tin đến mức cuồng tín vào tài năng và sứ mệnh của
mình. Chính cái tôi ngạo nghễ của Segovia đã bảo vệ Segovia – một yếu tố
không thể thiếu cho sự sống còn của bất kỳ người trình diễn nào. Ngay
cả những guitarist đồng nghiệp khá nổi tiếng của Segovia cũng khó chịu
khi biết rằng những ai không trung thành với nghệ sĩ bậc thầy ấy, hay
không tuân theo phương pháp hoặc ý nhạc của ông đều có thể bị thất sủng
hay bị phủ nhận hoàn toàn.
Julian Bream, một trong những học trò cưng của Segovia, đã bị thất sủng
bởi vì Bream khăng khăng chơi cả đàn lute lẫn đàn guitar. Trước ý tưởng
ngoại đạo ấy, bậc thầy phán: “Một tôi không thể thờ hai chúa.” Segovia
cũng không đánh giá cao những phiêu lưu trong lãnh vực nhạc pop của một
môn đệ người Anh khác, John Williams và đặc biệt là của một số guitarist
trẻ trong thập niên 1960 và 1970 khi họ bắt buộc phải chọn phe trong
vấn đề này.
Bất kỳ ai tự gọi mình là guitarist nhưng lại chọn cây đàn điện hình thù
quái dị với dây nhợ lòng thòng như cuống rốn chưa lìa đều lãnh trọn sự
khinh miệt của giáo chủ Segovia, bất kể việc một Beatles đã từng tuyên
bố rằng Segovia là “cha của tất cả chúng ta.” Segovia bất cần sự tán
thưởng của công chúng mà lại đòi hỏi sự chung thủy với truyền thống cổ
điển – cái truyền thống ấy trong nhiều phương diện chính là một trong
những yếu tố tạo dựng ra và duy trì cái tên Segovia
Cái tôi quá lớn của Segovia có thể khiến ông phải chọn những vị thế cố
chấp: người ta cho rằng ông từ chối trình diễn hay ghi âm “Concierto de
Aranjuez” của Rodrigo – một tác phẩm phổ thông nhất trong vốn tiết mục
trình tấu ghi âm cho đàn guitar – chỉ vì nhà soạn nhạc mù người Tây Ban
Nha ấy đã đề tặng bản concerto năm 1939 cho Sainz de la Maza, một
guitarist khác. Để biện hộ cho Segovia, phải nói rằng bản thân ông không
ưa chuộng mấy thể loại nhạc hợp tấu (ensemble), mặc dầu thỉnh thoảng
ông có chơi các concerto của Ponce và Villa-Lobos, cũng như “Fantasia
para un gentil hombre” của Rodrigo – một sự kính nể khá muộn màng của
Rodrigo khi viết tặng cho chính Segovia bản concerto này vào năm 1954.
Trong vai trò người biểu diễn, ông vừa là nhung lụa vừa là sắt thép, một
sự kết hợp mà cả ngàn môn đệ lẫn những kẻ bắt chước ông trên khắp thế
giới không thể sao chép được. Trong tất cả các cầm thủ tuyệt kỷ náo loạn
của thế giới guitar ngày nay, không có âm thanh nào lại vừa tự nhiên
lại vừa được nắn nót tinh vi như là tiếng đàn Segovia, đặc biệt là trong
thời kỳ sung mãn nhất của ông. Không ai có thể chơi “Leyenda” của
Albeniz sánh được Segovia với những cảm xúc dữ dội bị kềm nén, những
dòng âm thanh trào dâng và chùng lắng, những màu sắc đa dạng của thanh
âm, và với bầu không khí nhạc Ấn Tượng triền miên.
Vào thời mà các nhà âm nhạc học lẫn người biểu diễn đều coi trọng cách
diễn tấu trung thực theo tính chất của thời đại âm nhạc, cách Segovia
thể hiện “Chaconne” của Bach lại nghe rất riêng tư đến thảng thốt và đầy
hơi hướm xa vời của chủ nghĩa Lãng Mạn, một cách diễn tấu có thể nói là
lỗi thời trong một số phương diện. Thế nhưng những ai có khả năng cảm
nhận được nhịp đập của cuộc sống ẩn giấu trong những nốt ký âm vẫn tin
rằng dẫu Bach của thời Baroque có sống lại để nghe Segovia chơi
“Chaconne” thì Bach cũng phải gật đầu.
Những ngón tay, sự rọi phóng hiển hiện của cái thiên tài khuất lấp, là
mối quan tâm không ngừng của Segovia suốt cả tuổi già lẫn những năm
tháng son trẻ khi ông tự phát triển một kỹ thuật guitar riêng biệt cho
mình, dựa theo những gì biết được từ các bậc tiền bối như Fernando Sor,
Dioniso Aguado, Napoleon Coste và Francisco Tárrega. Theo truyền thống,
người ta thường chơi đàn với móng của bàn tay phải (phương pháp Aguado)
hay bằng đầu thịt của ngón tay (theo kiểu Sor và Tárrega). Segovia học
hỏi và kết hợp cả hai kỹ thuật này; một kỹ thuật khiến cho cách trình
tấu của ông đầy những âm sắc muôn màu trước đó có lẽ chưa từng thấy ở
cây đàn guitar. Ông hợp tác chặt chẽ với những nhà làm đàn như Ramirez
và Hauser để cải tiến cấu trúc của cây đàn guitar sao cho âm thanh nhỏ
nhẹ bẩm sinh của nhạc cụ ấy có thể vang xa khắp các hội trường ngày càng
lớn với thính giả ngày càng đông khi danh tiếng Segovia ngày càng lừng
lẫy. Sự phóng âm ấy rất quan trọng nhất là sau Thế Chiến thứ II, khi
giới phê bình và thính giả đã quá quen thuộc với âm lượng áp đảo của
những danh cầm piano bấy giờ.
Bản thân Segovia không bao giờ nhượng bộ với âm thanh khuếch đại qua
ampli của thời đại mới. Ông đã nghĩ ra nhiều cách lịch sự để làm thính
giả im lặng trước khi ông bắt đầu chơi đàn. Những cách thức ấy đã trở
thành một biểu tượng mang tên “tiếng suỵt Segovia”. Vào những mùa mà
những con vi-rút bí ẩn có thể khiến đôi ba thính giả co giật vì những
tràng ho bùng nổ, Segovia thường dừng giữa hai bài nhạc và đưa chiếc
khăn tay lên miệng như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng. Nghe Segovia trình
diễn đòi hỏi một sự nhạy cảm vượt ngoài khả năng tai nghe đơn thuần. Óc
tưởng tượng và sự cảm thông là điều bắt buộc bởi vì như Stravinsky đã
nói từ lâu: “Âm thanh của cây đàn guitar không những nhỏ nhẹ mà còn xa
vắng.”
Dù không phải lúc nào cũng nghe rő tiếng đàn Segovia, sự cách tân kỹ
thuật thấy rő nhất của ông ra đời sau Thế Chiến thứ II liên quan đến
việc chấp nhận và tán thành sử dụng dây đàn nylon – một điều khiến
guitarist khắp thế giới mãi mãi ghi ơn. Tất cả đều đồng ý rằng với dây
đàn nylon, âm sắc hay hơn và nhất quán hơn trên cả sáu dây đàn, và sự
tiện lợi do dây nylon mang lại là vô bờ bến.
Dây đàn làm bằng gân thú của thời xưa không những dễ bị lạc giọng hay
đứt ngang vào những lúc bất ngờ nhất mà còn làm cho đầu đàn guitar xoắn
vặn rối rắm mất thẩm mỹ. Với việc giáo dục là một thành phần trong di
sản vô giá của Segovia, ông được công nhận như một trong những người
thầy vĩ đại nhất thế kỷ này. Thế nhưng khác hẳn với hầu hết mọi đồng
nghiệp của mình trong số những người trình tấu nhạc cụ danh tiếng nhất
của thế kỷ, bản thân Segovia lại không được đào tạo chính quy. Trước
Segovia đã có sẵn một truyền thống guitar cổ điển với những danh cầm
tuyệt kỷ như Coste, Aguado và Miguel Llobet, nhưng truyền thống ấy đã bị
xem như một thứ âm nhạc nghiệp dư hay chìm vào quên lãng, ngay cả ở Tây
Ban Nha. Những danh cầm kiêm sáng tác gia như Sor hay Tárrega lừng lẫy
một thời ít được giới âm nhạc chuyên nghiệp biết đến, và đối với giới
này thì ngay cả những công phu của Paganini dành cho cây đàn guitar cũng
chỉ là những huyền thoại mơ hồ.
Thực tế mà nói, chính âm thanh của tiếng đàn guitar flamenco được dân
gypsy du mục gảy móc thô bạo đã mê hoặc Segovia ngay từ lần đầu tiên gặp
gỡ; một sự mê hoặc tiền định. Segovia và cây đàn guitar như hai người
tình của số phận và tiếng sét ái tình duy nhất thuở ban đầu đối với
Segovia là những âm thanh gay gắt inh tai. Thế là Segovia bắt đầu mày mò
tự học, và trở thành người tình chung thủy với loại nhạc cụ đáng hoài
nghi không hề có vốn nhạc trình diễn và chủ yếu chỉ dùng để đệm cho
những bài ca dân gian hay vũ điệu flamenco.
Những danh thủ tiền bối, như Coste, đã từng trình tấu Bach trên cây đàn
guitar; nhưng chỉ có Segovia mới có thể làm rúng động cả Paris với sự
tinh thông Johann Sebastian trong buổi công diễn đầu tiên tại thủ đô
Pháp năm 1924. Lúc đó, ông đã tự tạo cho chính mình và những tín đồ
tương lai một vốn nhạc trình tấu, mở rộng nỗ lực chuyển soạn của mình
vượt xa hơn nhạc của Bach để tìm tới âm nhạc của những tiền bối khả kính
xa xưa hơn như Scarlatti, Handel và Purcell, đồng thời cũng dò tìm
trong kho tàng âm nhạc của những danh cầm đàn lute cổ xưa như Sylvius
Leopold Weiss và Dowland.
Ông còn “xâm lược” (những kẻ xấu miệng đã từng bảo như thế) sang cả vốn
nhạc piano linh thiêng – Chopin, Brahms, Albeníz, Granados, Debussy and
Scriabin. Các nhạc sĩ nổi danh khác như Castelnuovo-Tedesco, Tansman,
Rodrigo, Ponce, Lauro, và Moreno Torroba cũng đã sáng tác hàng chục tác
phẩm cho Segovia hay cho các môn đệ của ông.
Hàng hàng lớp lớp các môn đệ cũng như đối thủ, những kẻ đã được công
chúng chấp nhận nhờ thành công của Segovia, đã chiếm lĩnh những đỉnh cao
mà Segovia đã giành được, tràn ngập các phòng hòa nhạc và phòng ghi âm.
Ttrong số đó không chỉ có Julian Bream và John Williams mà còn có Rey
de la Torre, Eliot Fisk, Laurindo Almeida, Siefried Behrend, Christopher
Parkening, Kazuhito Yamashita, David Starobin, Frederic Hand, Sharon
Isbin, Liona Boyd, Konrad Ragossnig, Alirio Diaz, Pepe và Angel Romero,
Narciso Yepes, Ida Presti, Alexandre Lagoya và Leo Brouwer, vv. Danh
sách ấy còn có thể kéo dài hơn nữa. Vị chỉ huy già đã ngã xuống nhưng
ngọn cờ của ông vẫn tung bay. Đoàn quân của ông xông tới củng cố những
đồn lũy mà ông đã khó khăn mới chiếm giữ được và không ngừng chiêu mộ
những tân binh mới vào hàng ngũ. Guitar cổ điển trở thành một bằng cấp
tiêu chuẩn ở nhiều đại học và nhạc viện, và đây đó đã xuất hiện những
nhà phê bình âm nhạc có hiểu biết về cây đàn guitar và kho tàng âm nhạc
của nó. Những nhà phê bình này có lẽ chính là đài tưởng niệm ghê gớm
nhất của Segovia, một "giống loài âm nhạc" được khai sinh và tồn tại
hoàn toàn nhờ công sức của một mình ông.
Suốt một cuộc đời dài đầy những thành tựu mang tên mình, Segovia chắc
chắn phải hiểu rő giá trị của mình hơn bất kỳ nhà phê bình nào. Kẻ tự
học kiêu hãnh này thích thú bông đùa về lợi thế của việc không có thầy:
“Cho tới hôm nay, thầy và trò chưa hề có trận cãi nhau nghiêm trọng
nào.” Bằng cách nào Segovia có được đôi cánh mạnh mẽ đưa ông bay bổng
tới những tầng trời cao nhất của nghệ thuật? Điều đó mãi mãi là một bí
mật. Ngay khi còn sống, ông đã chiếm lĩnh một vị trí trong ngôi đền của
những danh cầm thế kỷ, bên cạnh Rubinstein, Casals, Toscanini, Heifetz
và Horowitz. Giống như các danh cầm kia, ông quyến rũ được công chúng là
nhờ ghi âm thu đĩa. Sự nghiệp nửa thế kỷ ghi âm của Segovia bắt đầu tại
London ngày 2 tháng Năm 1927 và kết thúc với lần thu tại Madrid ngày 23
tháng Sáu 1977. Vào những năm cuối đời, Segovia vẫn còn nhận được tiền
tác quyền của đĩa nhạc ghi âm đầu tiên dạo ấy. Segovia đã ghi âm hơn 30
đĩa nhạc và các đĩa ấy đã được tái bản liên tục cho tới bây giờ.
Trong những thập niên cuối cùng, Segovia tổ chức nhiều lớp chuyên tu
(master class) ở Santiago de Compostella, Tây Ban Nha cũng như ở nhiều
nhạc viện trên khắp thế giới. Ba tháng trước khi từ trần, Segovia vẫn
còn giảng dạy trong những khóa chuyên tu như vậy ở Nhạc Viện Manhatten
và thính đường Carnegie Hall, Hoa Kỳ. Ông cũng từng giảng dạy nhiều năm ở
Siena, Italia. Được thụ giáo Andrés Segovia là một nhãn hiệu công nhận
quốc tế đối với nhiều guitarist thế hệ sau như Julian Bream, John
Williams, Eliot Fisk và Christopher Parkening.
Tôi còn cả thiên thu để an nghỉ
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Segovia kết thúc bằng một quyết định ly dị
năm 1951. Mười năm sau, ông thành hôn với người vợ kế Emilia del Corral.
Khi ấy ông đã 68 tuổi trong khi Emilia chỉ mới ngoài 20. Emilia từng là
môn đệ guitar của ông suốt 12 năm trời. Cậu con trai của họ, Carlos
Andrés, chào đời khi Segovia đã 77 tuổi. Cậu bé này cách biệt hai người
con đầu của Segovia đến nửa thế kỷ!
Segovia có lần bông đùa với một nhà báo trong một cuộc phỏng vấn: "Tôi
nổi tiếng là một người cha hơn là một nhà nghệ sĩ!" Sức khỏe dần suy
giảm theo thời gian, Segovia không còn duy trì được nhịp độ căng thẳng
của 100 lần biểu diễn một năm như trước. Ông lui về nghỉ ngơi trong một
ngôi nhà trên đỉnh đồi ở Granada quê hương. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục duy
trì khoảng 10 buổi trình diễn mỗi mùa và dạy các lớp chuyên tu gần như
đến tận cùng cuộc đời mình – một cuộc đời với tình yêu bất diệt dành cho
cây đàn guitar.
Nhìn lại lịch sử âm nhạc, thật ngạc nhiên khi thấy rằng chỉ có ít nhạc
sĩ có thể làm thay đổi đáng kể lịch sử của loại nhạc cụ họ chọn lựa.
Listz, Paganini và Casals đã làm thay đổi lịch sử của piano, violon và
cello, chủ yếu qua những cải tiến cách mạng về mặt kỹ thuật. Wanda
Landowska đã làm thay đổi số phận của cây đàn harp. Trong danh sách cực
kỳ ngắn ấy, ta có thể thêm vào cái tên Andrés Segovia. Thế giới âm nhạc
đã từ lâu công nhận rằng Segovia không những đã hoàn thiện kỹ thuật của
một vài người tiên phong ở thế kỷ 19 mà còn vượt xa hơn cả các bậc tiền
bối ấy trong tài soạn nhạc nữa.
Những gì Segovia đạt được trong sự nghiệp biểu diễn chính là sự tái sinh
– một số người dám nói là sự khai sinh – của cây đàn guitar như một
nhạc cụ trình tấu nghiêm túc. Cả cuộc đời ông là một cuộc thánh chiến để
cứu vớt chiếc đàn sáu dây này thoát khỏi cảnh thấp hčn của một nhạc cụ
“du đãng”.
Giờ đây, khi thế kỷ 21 bắt đầu ló dạng, sứ mệnh của nhà tiên tri đã hoàn
thành. Cây đàn guitar cổ điển – sở dĩ được mang cái tên này là do cấu
trúc truyền thống và phương pháp chơi đàn chứ không phải vì vốn nhạc của
nó – đã có chỗ đứng đàng hoàng trên sàn diễn bên cạnh những nhạc cụ độc
tấu nổi bật nhất: violon, piano, cello.
Khi Segovia bước vào những năm tháng cuối đời, những buổi trình diễn của
ông vẫn liên tục đầy ắp thính giả. Segovia là một minh chứng cho sự
trường thọ và sung mãn. Ông là một trong số rất ít những nhạc sĩ vẫn còn
trình diễn ở tuổi 80 và 90. Lúc cuối đời, khi mắt ông bị cườm và thị
giác đã mờ phải dùng đôi mắt kính dày cộm mới thấy rő, một người bạn
quan tâm hỏi ông sao vẫn tiếp tục làm việc quá sức ở cái tuổi già lão
này. Ông đáp – một câu trả lời đối nghịch tiêu biểu Segovia: "Vì tôi còn
cả một thiên thu để mà an nghỉ"...
Và cuối cùng...Ông là người đưa ra một công thức về thời gian luyện tập, đó là công
thức 10.000 giờ luyện tập. Nó giống như câu nói của Edison: "Trên con
đường dẫn tới thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng", hay câu
nói của Einstein: "Chỉ có 1% thiên tài, còn lại 99% là sự nỗ lực". Bởi
vậy, nếu muốn vượt qua Segovia, bạn hãy tự thành lập cho mình một công
thức mới đại loại như "10.001 giờ luyện tập" chẳng hạn.